Liên Xô thiếu khả năng hải quân phù hợp Kế_hoạch_Hula

Nhiều người tin rằng Kế hoạch Hula sẽ mang lại cho Liên Xô khả năng xâm chiếm các hòn đảo của Nhật Bản. Tuy nhiên, nhiều nhà sử học đồng ý rằng vẫn chưa đủ để Liên Xô tạo ra một mối đe dọa nghiêm trọng đối với Tokyo. Tính đến ngày 20 tháng 12 năm 1945, 3,741 tàu cho mượn của Mỹ đã được trao cho Liên Xô, 36 trong số đó có khả năng thực hiện một cuộc xâm lược Nhật Bản. Điều này rõ ràng là không đủ để gây ra một mối đe dọa lớn cho các lực lượng Nhật Bản ở đại lục.[40] Với cách Liên Xô tiến hành cuộc xâm lược miền nam SakhalinQuần đảo Kuril, với số lượng tàu và tàu đổ bộ hạn chế của Hải quân Hoa Kỳ, có khả năng Liên Xô sẽ không thành công trong việc chiếm toàn bộ lãnh thổ do Nhật Bản quản lý, bao gồm cả Hokkaido.

Ví dụ, Liên Xô, trong cuộc xâm lược miền nam Sakhalin, vào ngày 11 tháng 8, đông hơn quân Nhật gấp ba nhưng họ không thể tiến lên do sự kháng cự mạnh mẽ của quân Nhật. Cuộc tấn công cuat Liên Xô đối với quần đảo Kuril diễn ra sau khi Nhật Bản đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, và mặc dù vậy, các lực lượng Nhật Bản tại các đảo này đã chống trả khá quyết liệt (mặc dù một số lính Nhật không sẵn sàng chiến đấu do Nhật Bản đầu hàng vào ngày 15 tháng 8). Trong Trận Shumshu, Liên Xô có 8,821 quân không được hỗ trợ bởi xe tăng và không có tàu chiến lớn. Lực lượng đồn trú vững chắc của Nhật Bản có 8,500 quân và có khoảng 77 xe tăng. Trận Shumshu kéo dài trong năm ngày Liên Xô mất hơn 516 quân và năm trong số mười sáu tàu đổ bộ (hầu hết các tàu này là của Hải quân Hoa Kỳ) trước pháo bờ biển Nhật Bản trong khi quân Nhật mất hơn 256 quân. Cuối cùng, thương vong của Liên Xô lên tới 1,567 người trong khi quân Nhật chịu 1,018 thương vong, đây là trận chiến duy nhất trong 1945 Chiến tranh Xô-Nhật năm 1945 mà tổn thất của Nga vượt quá quân Nhật. Nếu chiến tranh tiếp diễn, số người chết Liên Xô trong cuộc xâm lược quần đảo Kuril sẽ còn cao hơn nhiều và nguồn cung cấp hậu cần sẽ trở nên căng thẳng nghiêm trọng do Liên Xô thiếu khả năng cung cấp lực lượng và thiết bị ở nước ngoài. Vào thời điểm Nhật Bản đầu hàng, ước tính có khoảng 50,000 lính Nhật đang đóng quân ở Hokkaido.[41][42][43][44][cần số trang]

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, người Nhật có một căn cứ hải quân tại Paramushiro, thuộc quần đảo Kuril, và một số căn cứ ở Hokkaido. Biển Nhật Bản được Hải quân Đế quốc Nhật Bản tuần tra cả ngày lẫn đêm. Nếu có bất kỳ sự hiện diện nào của Hải quân Liên Xô trên vùng biển này, người Nhật có thể đã biết về điều đó.Kể từ khi Nhật Bản và Liên Xô trung lập cho đến khi Liên Xô tuyên chiến với Nhật Bản, vào ngày 8 tháng 8 năm 1945, cảng Vladivostok, và cảng biển khác ở Liên Xô, liên tục bị theo dõi bởi các quan sát viên Nhật Bản trên lãnh thổ Nhật ở Mãn Châu, Triều Tiên, Sakhalin và quần đảo Kuril.[45]

Hội nghị Yalta trao cho Liên Xô quyền xâm chiếm nam Sakhalin và quần đảo Kuril, nhưng không phải là các đảo chính của Nhật Bản. Theo Thomas B. AllenNorman Polmar, các kế hoạch chi tiết của Liên Xô cho các cuộc xâm lược Viễn Đông đã được vạch ra cẩn thận, ngoại trừ việc đổ bộ vào Hokkaido "chỉ tồn tại một cách chi tiết" trong suy nghĩ của Stalin và "không chắc rằng Stalin có lợi ích trong việc chiếm Mãn Châu và thậm chí chiếm Hokkaido. Ngay cả khi muốn giành được càng nhiều lãnh thổ ở châu Á càng tốt, ông ấy đã tập trung quá nhiều vào việc thiết lập một đầu tàu ở châu Âu so với châu Á."[46] Hai ngày trước khi Nhật Bản đầu hàng vào ngày 15 tháng 8 năm 1945, Chính ủy Nikita KhrushchevNguyên soái Meretskov, gợi ý rằng Liên Xô nên xâm lược Hokkaido, nhưng phần lớn các quan chức ngoại giao và sĩ quan Liên Xô, bao gồm Vyacheslav MolotovGeorgy Zhukov, phản đối với lý do họ vẫn chưa có đủ tàu đổ bộ và trang thiết bị cần thiết cho cuộc xâm lược; do đó, nếu Liên Xô cố gắng bằng mọi cách, điều đó sẽ khiến quân đội Liên Xô phải đối mặt với sự phòng thủ quyết liệt của quân Nhật một cách nguy hiểm, và hơn nữa điều đó sẽ vi phạm hiệp định Yalta với Đồng minh Phương Tây, cấm Liên Xô xâm lược các đảo chính của Nhật Bản.[47]

Vào ngày 11 tháng 9 năm 1947, một bản ghi nhớ được các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ viết về việc quân đội Hoa Kỳ rút khỏi sự Chiếm đóng Nhật Bản:

Nhật Bản không có khả năng gây ra mối đe dọa đối với an ninh của Hoa Kỳ bất cứ lúc nào trong tương lai gần. Do đó, các biện pháp an ninh của Hoa Kỳ ở Viễn Đông được thiết kế chủ yếu để bảo vệ, mà không có các phương tiện sẵn có, chống lại sự xâm lược có vũ trang của Nga ở Phương Đông. Đối với Nhật Bản, các ước tính hiện tại về khả năng của Liên Xô thừa nhận việc Nga không có đủ lực lượng hải quân để thực hiện một cuộc tấn công đổ bộ vào Quần đảo Nhật Bản... Các lực lượng trên không và trên bộ của Hoa Kỳ hiện tại ở Nhật Bản được coi là đủ để làm gián đoạn sự hỗ trợ liên tục của một cuộc xâm lược như vậy sau các cuộc tấn công bất ngờ ban đầu, thành công của Liên Xô sẽ rất hạn chế.[48]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Kế_hoạch_Hula //books.google.com/books?id=BYiYKCIdz28C //books.google.com/books?id=Za_xPPsxhmwC //books.google.com/books?id=p01bFVagOJYC&pg=PA15 http://www.history.navy.mil/research/histories/shi... //www.worldcat.org/issn/0195-3451 https://www.armyupress.army.mil/Portals/7/combat-s... https://archive.org/details/codenamedownfall00alle https://archive.org/details/downfallendofimp00fran https://archive.org/details/janesfightingshi00fran... https://commons.wikimedia.org/wiki/Category:Projec...